5/5 - (1 vote) Trong khi bị thuỷ đậu, nếu xảy ra tình trạng viêm nhiễm sẽ tăng nguy cơ hình thành sẹo. Đa phần sẹo sau thuỷ đậu là sẹo lõm sâu vào dưới da khiến cho da bị rỗ, mất thẩm mỹ. Việc áp dụng lập tức các cách trị sẹo lõm sau khi bị thuỷ đậu sẽ giúp chúng ta làm đầy sẹo một cách nhanh chóng Bệnh đậu mùa khỉ đã xâm nhập vào nước ta, để chủ động phòng chống, người dân cần chủ động thực hiện 6 biện pháp phòng bệnh theo khuyến cáo của Bộ Y tế: Che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi. Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng và nước sạch hoặc dung dịch sát Bệnh Thủy đậu là một bệnh do một loại virus mang tên Varicella Zoster Virus gây ra và chiếm trên 90% số đối tượng chưa tiêm phòng vacxin có khả năng mắc bệnh. Bệnh có thể rải rác hoặc bùng phát thành các vụ dịch nhỏ ở nhưng nơi đông dân cư, điều kiện vệ sinh kém. Biểu hiện ban đầu của bệnh là các mụn Bệnh thủy đậu và những điều cần biết. Trước khi đi vào giải đáp bị thủy đậu kiêng ăn gì để không bị sẹo, thì chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những điều xung quanh bệnh thủy đậu như nguyên nhân gây bệnh, biểu hiện và những biến chứng có thể xảy ra. Chỉ định: Cách chữa thủy đậu dân gian từ hoa mai và mật ong thích hợp cho người bị thủy đậu nhẹ, bệnh mới phát, nốt mụn còn ít. – Bài thuốc số 4: Chuẩn bị: Cát căn , cát cánh, tiền hồ mỗi loại 12g; Thanh bì, thuyền thoái, kinh giới, sơn tra, liên kiều, mạch nha cash. PLO- Hiện bệnh than vẫn là bệnh lưu hành trên đàn gia súc và trên người ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Gần đây tôi có đọc các thông Việt Nam lại xuất hiện bệnh than. Vậy bệnh than nguy hiểm đến đâu, dấu hiệu nhận biết căn bệnh này và cách phòng tránh thế nào? Nguyễn Thị An, Trả lời Theo Bộ Y tế, bệnh than thuộc nhóm B trong luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Bệnh than là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính thường làm tổn thương da, hiếm gây tổn thương mồm - họng, đường hô hấp dưới, trung thất hoặc bộ máy tiêu hóa. Ở thể da, chỗ da bị nhiễm trùng xuất hiện ngứa đầu tiên, sau đó dẫn đến tổn thương, nổi sần, mụn nước và từ 2 đến 4 ngày sau phát triển thành nốt loét màu đen. Quanh chỗ loét thường có phù mức độ từ nhẹ đến nặng và lan rất rộng, đôi khi có mụn nước nhỏ thứ phát. Nốt loét thường không đau, nếu có đau là do phù hoặc bội nhiễm. Đầu, cánh tay và bàn tay là nơi hay bị tổn thương nhất. Nốt loét có thể bị nhầm lẫn với viêm da. Nơi nhiễm khuẩn không được điều trị có thể lan tới các hạch bạch huyết vùng rồi vào máu gây nhiễm trùng huy. Bệnh than lây truyền qua da là do tiếp xúc với các mô của động vật gia súc, cừu, dê, ngựa, lợn và các súc vật khác chết vì mắc bệnh than; nhiễm qua lông, da, xương hoặc các sản phẩm làm từ những nguyên liệu trên như trống, bàn chải… Bệnh than cũng lây truyền qua đất bị nhiễm khuẩn từ các động vật mắc bệnh chết và tổn thương não. Để phòng tránh bệnh than, Bộ Y tế khuyến cáo người dân không giết mổ, không sử dụng thực phẩm từ trâu, bò, ngựa ốm chết, không rõ nguồn gốc. Bệnh than hiện vẫn là bệnh lưu hành trên đàn gia súc và trên người ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam bao gồm Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Thái Nguyên, Hà Giang. Thuốc dị ứng uống cùng lúc với thuốc tránh thai có sao không? PLO- Các loại thuốc chống dị ứng thế hệ mới nói chung rất an toàn, chưa có báo cáo ghi nhận tương tác với thuốc tránh thai. T. HƯƠNG tổng hợp Bệnh thủy đậu còn gọi là bệnh trái rạ từng bị nhầm lẫn với bệnh đậu mùa suốt thời gian dài cho đến tận thế kỷ 19. Bệnh phổ biến ở trẻ em dưới 10 tuổi và bắt đầu giảm mạnh từ năm 1970 khi có các nhà khoa học tìm ra được vắc xin ngừa thủy đậu. Vậy bệnh thủy đậu là gì? Thuỷ đậu là gì? Thủy đậu là bệnh nhiễm trùng do vi rút varicella-zoster gây ra. Vi rút này có kích thước khoảng 150- 200mm, với nhân là AND. Người mắc bệnh sẽ phát ban, nổi mụn nước nhỏ có chứa đầy dịch, gây ngứa. Bệnh rất dễ lây cho những người chưa được tiêm vắc xin hoặc chưa từng nhiễm vi rút varicella-zoster. Bệnh thủy đậu được mô tả từ thời cổ đại nhưng y học thời bấy giờ cho rằng đây là dạng bệnh đậu mùa nhẹ. Mãi đến năm 1765, nhà khoa học Vogel đặt tên bệnh thủy đậu là Varicella. Năm 1767, bác sĩ người Anh William Heberden đã chứng minh bệnh đậu mùa khác với bệnh thủy đậu. Lần đầu tiên, bệnh thủy đậu được mô tả có bệnh cảnh lâm sàng riêng biệt. Tiếp tục vào năm 1875, nhà khoa học Rudolf Steiner cho thấy bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm. Cuối cùng bệnh thủy đậu được nhà khoa học Thomas Weller phân lập được virus varicella vào năm 1954. Nhà vi rút học Nhật Bản Michiaki Takahashi chính là người đã phát triển trực tiếp vắc xin thủy đậu vào năm 1972. Các mụn nước bệnh thủy đậu Nguyên nhân gây bệnh thuỷ đậu Đây là bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp qua đường hô hấp như ho khan, hắt xì và lây gián tiếp khi tiếp xúc với nước miếng, dịch tiết, chất lỏng từ mụn nước. Vi rút gây bệnh bằng cách xâm nhập vào niêm mạc đường hô hấp trên miệng, hầu họng và cũng có thể là đường tiêu hoá, kết mạc mắt nhưng hiếm gặp. Vi rút varicella-zoster có thể lây cho những người xung quanh chỉ trong 1 – 2 ngày trước khi người bệnh xuất hiện mụn nước. Vi rút gây bệnh thủy đậu chỉ ngừng lây khi tất cả các mụn nước đã đóng vảy. Và các nhà khoa học đã hồi cứu và nhận thấy hầu hết nguyên nhân gây bệnh thủy đậu là do tiếp xúc với người bệnh. 1 Triệu chứng bệnh thuỷ đậu qua từng giai đoạn Sau 10 – 21 ngày tiếp xúc với vi rút varicella-zoster, người bệnh có triệu chứng nổi mụn nước trên da niêm mạc, ngứa do nhiễm trùng, phát ban, ban mọc thành nhiều đợt cách nhau 3-4 ngày. Bệnh thủy đậu thường kéo dài khoảng 5 – 10 ngày. Ngoài ra, người bệnh còn có thể gặp các dấu hiệu bệnh thủy đậu như Sốt, ăn mất ngon, đau đầu, mệt mỏi và cảm giác khó chịu trong người. 2 Giai đoạn ủ bệnh Vi rút gây bệnh thủy đậu có thời gian ủ bệnh từ 2 đến 3 tuần. Tùy thuộc vào sức đề kháng và đối tượng nhiễm bệnh mà thời gian ủ bệnh ở mỗi người không giống nhau, trung bình kéo dài từ 10 – 20 ngày. Giai đoạn phát bệnh Khi bắt đầu phát bệnh, người bệnh có biểu hiện mệt mỏi, nhức đầu, đau cơ, chán ăn, nôn ói, sốt nhẹ, chảy nước mũi, đau họng. Và 1 – 2 ngày sau đó, trên da người bệnh sẽ xuất hiện các mẩn ngứa màu đỏ khắp các vùng da, với đường kính vài mm, bắt đầu ở vùng đầu, mắt rồi lan ra toàn thân. Một số người bệnh còn xuất hiện hạch sau tai, viêm họng. Giai đoạn toàn phát Các mụn nước hay còn gọi là ban dạng phỏng nước xuất hiện nhanh chóng trong vòng 1 ngày sau đó. Ban đỏ chuyển thành mụn nước hình tròn, với đường kính 1-3mm, chứa chất dịch bên trong màu trắng hoặc trắng đục, nếu bội nhiễm vi khuẩn thì dịch sẽ kèm theo mủ. Ban mọc nhiều ở vùng ít bị tì đè như vùng liên bả, bên sườn, nách, kheo, có khi dày đặc ở mặt và thân mình, chân tay thì ít ban hơn. Ban đỏ mọc nhiều đợt trên cùng một vùng da, do đó người bệnh sẽ thấy ban mọc ở nhiều mức độ khác nhau từ nốt sẩn, bọng nước trong, bọng nước đục hoặc đóng vảy. Người mắc bệnh thủy đậu có thể nổi từ vài mụn nước cho đến hàng trăm mụn nước trên cơ thể. Một khi phát ban thủy đậu xuất hiện, nó sẽ có màu màu hồng hoặc đỏ sẩn. Các mụn nước nhỏ chứa đầy chất lỏng mụn nước, hình thành trong khoảng 1 ngày, sau đó vỡ và rỉ dịch. Sau đó, các mụn nước bị vỡ mất thêm vài ngày để lành vết thương. Trong thời gian đó, các mụn nước mới tiếp tục xuất hiện Bệnh thủy đậu thường nhẹ ở trẻ em khỏe mạnh nhưng ở một số ca, ban có thể bao phủ toàn bộ cơ thể, có thể hình thành tổn thương ở cổ họng, mắt và niêm mạc niệu đạo, hậu môn và âm đạo. Giai đoạn hồi phục Bệnh kéo dài từ 7 – 10 ngày, vảy tiết thường rụng sau 1-3 tuần. Nếu bệnh thủy đậu không có biến chứng thì các mụn nước sẽ khô dần, bong vảy, thâm da nơi nổi mụn nước, không để lại sẹo. Nhưng nếu người bệnh bị nhiễm trùng mụn nước thì sẽ có thể để lại sẹo, đặc biệt nếu bị bội nhiễm, một số có nền hơi lõm, có thể thành sẹo một thời gian dài hay sẹo vĩnh viễn. Đối tượng nào có nguy cơ nhiễm bệnh thuỷ đậu Thời kỳ lây truyền bệnh thủy đậu của vi rút varicella-zoster là 1-2 ngày trước khi phát ban và cho đến khi tất cả các mụn nước vỡ đóng vảy. Vậy đối tượng nào có nguy cơ nhiễm bệnh thủy đậu? Bệnh thủy đậu xảy ra phổ biến ở trẻ dưới 10 tuổi, nhưng điều này không có nghĩa người lớn không mắc bệnh. Tất cả mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh thuỷ đậu và trẻ em từ 6 tháng tuổi đến 7 tuổi là đối tượng dễ nhiễm vi rút nhất. Riêng ở người lớn trên 20 tuổi thì tỷ lệ mắc bệnh thủy đậu ít hơn, khoảng 10% do đã có miễn dịch. Người đã mắc bệnh thủy đậu thì thường có miễn dịch miễn dịch bền vững suốt đời, tuy nhiên cũng có khoảng 1% tái nhiễm. Một số người có thể bị thủy đậu nhiều hơn một lần trong đời, nhưng trường hợp này rất hiếm. Với những người đã tiêm vắc xin thủy đậu mà vẫn mắc bệnh thì các triệu chứng bệnh thường nhẹ hơn, ít mụn nước và nhẹ hoặc không sốt. Biến chứng nguy hiểm bệnh thuỷ đậu có thể gặp? Từ thời xa xưa, bệnh thủy đậu từng được xem là bệnh đậu mùa nhẹ, điều này chứng minh cho việc bệnh được xếp vào nhóm bệnh nhẹ. Tuy nhiên, bệnh vẫn có thể trở nên nghiêm trọng ở người bệnh không được chăm sóc y tế, không tuân theo hướng dẫn của bác sĩ điều trị. Một số biến chứng bệnh thủy đậu có thể gây nguy hiểm có thể kể đến như 3 Nhiễm khuẩn da, mô mềm, xương, khớp và nhiễm trùng máu là biến chứng thường gặp nhất. Chính các vết mụn nước vỡ ra, lại ngứa khó chịu nên nhiều người dùng tay bẩn “xâm phạm” vết thương hoặc vệ sinh không đúng cách dẫn đến chảy máu bên trong, nhiễm trùng. Đây là biến chứng thường gặp ở trẻ nhỏ không “kìm chế” được mụn nước đang ngứa ngáy khó chịu. Viêm não là biến chứng có thể xảy ra ở trẻ em và người lớn nhưng người lớn gặp nhiều hơn, có thể tử vong nếu không điều trị kịp thời. Biến chứng thường xuất hiện sau 1 tuần người bệnh nổi mụn nước. Khi gặp biến chứng này, người bệnh có thể kèm theo các triệu chứng sốt cao, hôn mê, co giật, rối loạn tri giác, rung giật nhãn cầu. Biến chứng này có thể gây tử vong nếu không chữa trị kịp thời. Viêm phổi thủy đậu với biểu hiện ho nhiều, ho ra máu, khó thở, tức ngực là biến chứng thủy đậu thường xảy ra ở người trưởng thành, vào ngày thứ 3 – 5 sau khi bệnh khởi phát. Viêm thận, viêm cầu thận cấp cũng là biến chứng do thủy đậu gây ra, ban mọc muộn vào ngày thứ 3, thứ 4 của bệnh. Dấu hiệu dễ quan sát nhất là người bệnh đi tiểu ra máu, suy thận. Viêm khớp tràn dịch cũng gặp ở các thể nặng, các khớp có viêm và tràn dịch, ít khi thành mủ. Chưa kể, ở một số trường hợp, bệnh thuỷ đậu có thể kết hợp với một bệnh truyền nhiễm khác cùng xuất hiện như bạch hầu, ho gà, sởi. Khi mắc cùng lúc nhiều dạng bệnh này thì tình trạng người bệnh thường nặng lấn át lâm sàng bệnh thuỷ đậu. Nếu một người đã bị thủy đậu vẫn có nguy cơ bị một biến chứng khác, đó là bệnh zona. Vi rút gây bệnh thủy đậu varicella-zoster vẫn còn tồn tại trong các tế bào thần kinh sau khi vết mụn nước nhiễm trùng trên da đã lành. Nhiều năm sau, nếu cơ thể lớn tuổi hoặc hệ miễn dịch suy yếu thì vi rút đó có thể tái hoạt động và tái phát thành bệnh zona – một đám mụn nước gây đau đớn trong thời gian ngắn. Cơn đau do giời leo có thể kéo dài sau khi mụn nước này biến mất. Triệu chứng đau này được gọi là chứng đau dây thần kinh dạng postherpetic và có thể nghiêm trọng. Ngoài ra, người bệnh thủy đậu có thể gặp một số biến chứng như viêm tai giữa và tai ngoài, viêm niêm mạc miệng, viêm cơ tim, viêm hạch lympho, viêm dây thần kinh, hội chứng Croup giả, viêm thanh quản do các nốt mụn thủy đậu mọc ở khu vực này gây lở loét, nhiễm trùng gây sưng tấy. Hay biến chứng mất nước, hội chứng sốc nhiễm độc, hội chứng Reye ở trẻ em và thanh thiếu niên dùng thuốc aspirin trong điều trị bệnh thủy đậu. Những đối tượng dễ bị biến chứng khi mắc thủy đậu gồm Trẻ sơ sinh có mẹ chưa từng bị bệnh thủy đậu hoặc chưa chủng ngừa; thai phụ chưa mắc bệnh, người suy yếu miễn dịch như HIV, hóa trị, dùng thuốc ức chế miễn dịch, hen suyễn,… Bệnh thuỷ đậu có lây không? Bệnh thủy đậu do vi rút varicella-zoster lây truyền, chủ yếu khi thời tiết ấm nồm như mùa xuân, là thời điểm thuận lợi cho bệnh lây lan cấp tính. Vi rút có thể lây lan khi tiếp xúc trực tiếp với vùng phát ban. Hoặc vi rút lây lan khi người bị bệnh thủy đậu ho hoặc hắt hơi và người lành hít phải các giọt không khí chứa vi rút. Riêng thai phụ bị thủy đậu 5 ngày trước sinh hoặc 2 ngày sau sinh có thể lây nhiễm thủy đậu từ mẹ sang con, thai nhi sinh ra có thể bị khuyết tật hoặc tử vong. Nhiều bằng chứng y khoa ghi nhận, trẻ sơ sinh nhẹ cân và bất thường về tay chân thường gặp hơn khi thai phụ mắc thủy đậu. Khi người mẹ bị nhiễm thủy đậu trong tuần trước khi sinh hoặc trong vài ngày sau khi sinh, thai nhi không chỉ có nguy cơ cao bị nhiễm trùng nghiêm trọng mà còn đe dọa tính mạng như thai chết lưu. Do đó, với phụ nữ đang mang thai cần kiểm tra sức khỏe xem có mắc bệnh thủy đậu chưa, để bác sĩ theo dõi thai kỳ và có hướng xử lý kịp thời. 4 Nếu bạn đang mang thai và không có miễn dịch với bệnh thủy đậu, hãy nói chuyện với bác sĩ về những rủi ro đối với bạn và thai nhi của bạn. Phương pháp chẩn đoán bệnh thuỷ đậu Xét nghiệm để phát hiện bệnh thủy đậu. Để chẩn đoán bệnh thủy đậu, trước hết bác sĩ thường loại trừ một số bệnh có triệu chứng hoặc biến chứng gần giống bệnh thủy đậu gây ra như chốc lây dạng bọng nước, Herpes simplex lan tràn, Eczema dạng ecpét, Eczema do vaccine, nhiễm Rickettsia, nhiễm enterovirus. Việc chẩn đoán bệnh thủy đậu chủ yếu dựa vào các dấu hiệu lâm sàng như người bệnh chưa tiêm vắc xin và chưa mắc thuỷ đậu, người bệnh bị lây nhiễm vi rút trong khoảng thời gian từ 2 – 3 tuần trước đó,… Ngoài ra, người bệnh còn được thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng như bạch cầu máu ngoại vi giảm, lympho bào tăng, miễn dịch huỳnh quang, soi tìm vi rút, phân lập vi rút, xét nghiệm chẩn đoán huyết thanh,… Phương pháp điều trị bệnh thuỷ đậu Bạn đi gặp bác sĩ để khám bệnh nếu gặp những dấu hiệu như có tiếp xúc người bệnh thủy đậu, mệt mỏi, nhức đầu, đau cơ, chán ăn, nôn ói, sốt nhẹ, chảy nước mũi, đau họng, nổi mẩn ngứa màu đỏ khắp các vùng da. Đặc biệt là phát ban lan sang một hoặc cả hai mắt., phát ban rất đỏ, ấm hoặc mềm thì có thể là dấu hiệu của nhiễm trùng da thứ phát do vi khuẩn. Hoặc phát ban kèm theo chóng mặt, mất phương hướng, tim đập nhanh, khó thở, run, các cơ mất phối hợp, ho, nôn mửa, cứng cổ hoặc sốt cao trên 38,9 độ C. Với bệnh thủy đậu hiện nay, bên cạnh việc điều trị triệu chứng, bác sĩ sẽ cho sử dụng thuốc để người bệnh mau hồi phục. Cụ thể, trẻ nhỏ thường mau khỏi bệnh nên thường điều trị triệu chứng, giảm đau, ngứa và ngăn không cho trẻ gãi để tránh nguy cơ nhiễm trùng. Thay vào đó, khi trẻ bị ngứa ngáy, bác sĩ hoặc phụ huynh dùng gạc ướt để làm sạch vết thương, sử dụng thuốc kháng histamin toàn thân,… Thuốc kháng khuẩn không nên được áp dụng trừ khi các tổn thương bị nhiễm trùng; nhiễm trùng do vi khuẩn phải được điều trị bằng kháng sinh. Với trẻ từ 12 tuổi trở lên, việc điều trị bằng thuốc valacyclovir hoặc famciclovir. Với bệnh nhân suy giảm miễn dịch hoặc người có diễn tiến nặng, bác sĩ có thể cho dùng đường tĩnh mạch acyclovir. Thuốc điều trị Người bệnh thủy đậu thường được điều trị bằng thuốc kháng vi rút, thuốc giảm đau, thuốc hạ sốt, các vitamin,… Thuốc điều trị như valacyclovir, famciclovir hoặc acyclovir dùng cho người bệnh có nguy cơ mắc bệnh từ trung bình đến nặng. Cụ thể, với thuốc dùng điều trị bệnh thủy đậu là famciclovir 500mg, mỗi ngày 3 lần. Hoặc thuốc valacyclovir 1g, mỗi ngày 3 lần 3 lần mỗi ngày cho người lớn. Thuốc acyclovir là một lựa chọn thứ yếu vì khả năng sinh khả dụng qua đường uống thấp, nhưng nó có thể sử dụng được ở liều 20mg/kg, với 4 lần/ngày và có thể sử dụng trong 5 ngày cho trẻ em từ 2 tuổi và ≤ 40kg. Liều cho trẻ em nặng trên 40kg là 800mg 4 lần mỗi ngày trong 5 ngày. Trẻ vị thành niên và người lớn có thể uống acyclovir uống với liều 800mg 5 lần/ngày. Trẻ em trên 1 tuổi bị suy giảm miễn dịch cũng nên dùng acyclovir 20mg/kg, mỗi 8 giờ qua đường tĩnh mạch. Người lớn suy giảm miễn dịch cần được điều trị với acyclovir 10 đến 12 mg/kg đường tĩnh mạch mỗi 8 giờ. Với thai phụ đối diện nguy cơ cao biến chứng thủy đậu, có thể uống acyclovir hoặc valacyclovir. Thuốc acyclovir tiêm tĩnh mạch được khuyến cáo cho bệnh thủy đậu nghiêm trọng ở thai phụ. Ngoài ra, người bệnh được uống thuốc hạ sốt có hoạt chất paracetamol, thuốc an thần chống co giật gardenal, seduxen, canxi bromua 3%,… thuốc chống ngứa bằng các thuốc kháng histamin như dimedrol 1%… Nếu người bệnh bị bội nhiễm sẽ được dùng kháng sinh thích hợp. Người bệnh có thể được khuyến cáo tiêm thuốc chủng ngừa bệnh zona Shingrix. Thuốc này được chấp thuận và khuyên dùng cho những người từ 50 tuổi trở lên. Điều trị tại nhà Khi điều trị tại nhà, người bệnh tuân thủ điều trị của Khi có sốt cao, người bệnh uống thuốc hạ sốt, vitamin nhóm B, C,… Phụ huynh có thể chấm dung dịch xanh methylen hoặc thuốc tím 1/4000 vào các nốt loét. Thông thường, bệnh thủy đậu của trẻ em, và trẻ dễ dàng vượt qua. Trong quá trình điều trị tại nhà, người bệnh cần đề phòng và phát hiện sớm biến chứng để nhập viện kịp thời. Những lưu ý khi điều trị thuỷ đậu Việc điều trị thủy đậu tại bệnh viện hay tại nhà cần tuân thủ lời dặn bác sĩ. Ngoài việc sử dụng thuốc điều trị đúng phác đồ, còn cần phải chế độ ngủ nghỉ, ăn uống thanh đạm để tránh biến chứng, để lại sẹo xấu,… Chế độ sinh hoạt Bệnh nhân mắc thủy đậu cần có chế độ sinh hoạt và vệ sinh thân thể như sau Tắm thường xuyên, giữ vệ sinh quần áo lót cũng như vệ sinh tay. Cắt móng tay thường xuyên để ngăn ngừa nhiễm khuẩn thứ phát. Dùng nước muối sinh lý để vệ sinh răng miệng, vệ sinh tai mũi họng, luôn giữ cho da khô sạch, không để trẻ gãi gây vỡ mụn nước. Mặc quần áo mềm sạch để các mụn nước không gây nhiễm trùng, ngứa ngáy cho trẻ. Người bệnh thủy đậu cần ăn thức ăn lỏng như Cháo, nui, trái cây,… Tại khu vực phòng bệnh tại nhà phải thoáng khí, tránh gió lùa. Người bệnh không nên trở lại trường học hoặc làm việc cho đến khi những tổn thương cuối cùng đã đóng vảy. Dinh dưỡng hàng ngày Nếu kiêng khem, ăn uống đúng cách thì chỉ 5 ngày sau khi xuất hiện các mụn nước sẽ vỡ ra, đóng vảy và bong hết. Do đó, dinh dưỡng cho người bệnh thủy đậu rất quan trọng. Thực phẩm nên ăn Người bệnh ăn thức ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng, thức ăn lỏng, dễ tiêu hóa như cháo đậu xanh, cháo gạo lứt, nui, măng tây, trứng, chuối, đậu đỏ, đậu xanh, đậu đen, khoai tây, cà rốt, củ cải trắng, bí đao, rau bồ ngót, rau sam, rau má, khổ qua, rau dền, cải thảo,… Đồng thời, người tăng cường các vitamin C để tăng sức đề kháng, chống nhiễm trùng, đẩy nhanh quá trình sản sinh collagen, phòng ngừa sẹo lõm như Chanh, cam, bơ, dâu tây, kiwi, lê, dưa hấu, dưa leo, cà chua,… Thực phẩm không nên ăn Người bệnh thủy đậu nên tránh các thức ăn nhiều dầu, mỡ, thức ăn nóng như gừng, hành, tỏi, hành tây, tỏi tây, ớt, hạt tiêu, thì là, cà ri, mù tạt, rau mùi, trái vải, xoài chín. Hoặc các loại thịt quá nhiều đạm như thịt dê, thịt gà, ngỗng, lươn, tôm, cua, sò, ốc,… Xem thêm Tổng hợp những căn bệnh về virus và kí sinh trùng Các biện pháp phòng tránh bệnh thuỷ đậu Tiêm vắc xin để ngừa thủy đậu Cách phòng bệnh thủy đậu hiệu quả nhất là tiêm vắc xin. Kể từ năm 1970, khi nhà khoa học Nhật Bản đã tìm ra được vắc xin thủy đậu thì bệnh đã được đẩy lùi rõ rệt. Các chuyên gia ước tính 98% trường hợp tránh được thủy đậu là nhờ vắc xin phòng bệnh quá hiệu quả. Hiện nay vắc xin ngừa thủy đậu được “tích hợp” chung với vắc xin ngừa sởi, quai bị Mũi 1 Tiêm khi trẻ trên 1 tuổi. Mũi 2 Trẻ từ 1 – 13 tuổi Tiêm cách mũi 1 tối thiểu 3 tháng. Trẻ 13 tuổi trở lên Tiêm cách mũi 1 ít nhất 1 tháng. Khi tiếp xúc với người đang mắc bệnh thủy đậu mà bản thân chưa tiêm ngừa vaccine thủy đậu, cần tiêm chủng trong 3 ngày sau đó. Trường hợp nếu người bệnh đã mắc thủy đậu và được trung tâm Xét nghiệm chẩn đoán khẳng định là bị bệnh thủy đậu thì không cần tiêm vắc xin bệnh thủy đậu nữa. Trên đây là một số thông tin tổng quản về bệnh thủy đậu, hy vọng nó giúp ích được cho bạn. Hãy chủ động phòng ngừa và đẩy lùi thủy đậu ngay từ hôm nay. Bệnh đậu mùa là một trường hợp nhiễm trùng cấp tính, toàn thân, thường là do trẻ do virut varicella-zoster gây ra loại virut gây bệnh herpes - 3. Nó thường bắt đầu với các triệu chứng toàn thân nhẹ được theo sau bởi các tổn thương da xuất hiện trong toàn thân và đặc trưng bởi ban dạng chấm, sẩn đỏ, mụn nước, và trợt. Bệnh nhân có nguy cơ biến chứng thần kinh nghiêm trọng hoặc các biến chứng nghiêm trọng toàn thân khác như viêm phổi bao gồm người lớn, trẻ sơ sinh, và bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch hoặc có một số bệnh lý nền. Chẩn đoán là lâm sàng. Những người có nguy cơ biến chứng nghiêm trọng sẽ được điều trị dự phòng sau phơi nhiễm globulin miễn dịch, và nếu bệnh phát triển, sẽ được điều trị bằng thuốc kháng vi-rút ví dụ valacyclovir, famciclovir, acyclovir. Tiêm phòng giúp phòng ngừa hiệu quả ở bệnh nhân suy giảm miễn thuỷ đậu, rất dễ lây lan qua tiếp xúc trực tiếp Niêm mạc thường là hầu mũi họng qua các giọt nhỏ trong không khí bị nhiễmTiếp xúc trực tiếp với vi-rút ví dụ, thông qua tổn thương daThủy đậu dễ lây nhiễm nhất trong giai đoạn đầu và giai đoạn đầu của sự phát ban. Nó có thể lây nhiễm từ 48 giờ trước khi các tổn thương da đầu tiên xuất hiện cho đến khi các tổn thương cuối cùng xuất hiện. Sự lây truyền gián tiếp do những người mang đã có miễn dịch không xảy ra. Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh thủy đậu Ở trẻ em suy giảm miễn dịch, thủy đậu hiếm khi trầm trọng. Ở người lớn và trẻ bị suy giảm miễn dịch, nhiễm trùng có thể nghiêm đầu nhẹ, sốt nhẹ và tình trạng khó chịu có thể xảy ra từ 7đến 21 ngày sau khi phơi nhiễm, khoảng 24 đến 36 giờ trước khi các thương tổn xuất hiện. Tiền triệu này có nhiều khả năng xảy ra ở bệnh nhân > 10 tuổi và thường nặng hơn ở người lớn. Phát ban ban đầu Phát ban ban đầu, sự phát ban dạng chấm trên da, có thể được đi kèm với lan tràn. Trong vòng vài giờ, tổn thương tiến triển thành sẹo và sau đó có hình thái điển hình, dạng phỏng nước thường ngứa nhiều, trên nền đỏ. Các tổn thương trở nên mụn mủ và sau đó đóng vẩy. Các tổn thương tiến triển từ sẩn đến sẩn và mụn nước, sau đó đóng vảy. Một dấu hiệu đặc trưng của bệnh thủy đậu là các tổn thương phát triển trong các vụ mùa để chúng ở trong các giai đoạn phát triển khác nhau ở bất kỳ khu vực nào. Sự phát ban có thể là toàn thể trong trường hợp nghiêm trọng liên quan đến thân, tứ chi và mặt, hoặc hạn chế hơn nhưng hầu như luôn liên quan đến phần trên của thân tổn thương loét có thể phát triển trên bề mặt niêm mạc, bao gồm các khoang miệng họng và miệng, đường hô hấp trên, và niêm mạc trực tràng và âm miệng, các ban phỏng nước thường vỡ ngay lập tức, không thể phân biệt được với những trường hợp viêm lợi quanh chân răng, và thường gây đau trong khi tổn thương da đầu có thể dẫn đến sự nhậy cảm, xuất hiện các hạch bạch huyết dưới chẩm và hạch thương tổn mới thường không còn xuất hiện vào ngày thứ 5, và phần lớn hình thành lớp vỏ vào ngày thứ 6; hầu hết các lớp vỏ biến mất 40 kg và người lớn là 800 mg 4 lần/ngày trong 5 ngày. Trẻ em bị suy giảm miễn dịch > 1 tuổi nên dùng acyclovir 10 mg/kg, 8 giờ một lần, đường tĩnh mạch. Người lớn suy giảm miễn dịch cần được điều trị với acyclovir 10 đến 12 mg/kg đường tĩnh mạch mỗi 8 vì phụ nữ mang thai có nguy cơ cao biến chứng bệnh thủy đậu, một số chuyên gia khuyên uống acyclovir hoặc có thể là valacyclovir cho phụ nữ mang thai bị thủy đậu. Mặc dù dữ liệu an toàn hiện có giúp cam đoan một lần nữa, nhưng độ an toàn của liệu pháp kháng vi rút trong thời kỳ mang thai vẫn chưa được thiết lập chắc chắn, và có nhiều kinh nghiệm lâu dài hơn về acyclovir trong thai kỳ so với valacyclovir. Acyclovir và valacyclovir là thuốc nhóm B cho thai kỳ. Thuốc acyclovir tiêm tĩnh mạch được khuyến cáo cho bệnh thủy đậu nghiêm trọng ở phụ nữ mang thai. Có rất ít dữ liệu về độ an toàn của famciclovir trong thai kỳ nên thường không được khuyến cáo cho phụ nữ có thai. Nhiễm trùng cung cấp sự bảo vệ suốt người có nguy cơ dễ mắc phải nên áp dụng các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt để tránh những người có khả năng lây nhiễm. Vắc-xin thủy đậu liều chuẩnVắc-xin phòng ngừa sởi-quai bị- sởi Đức-varicella MMRVTất cả trẻ khỏe mạnh và người lớn nhạy cảm cần được tiêm chủng 2 liều vắc-xin phòng ngừa thủy đậu là xem Bảng Lịch tiêm chủng khuyến nghị cho trẻ từ 0-6 tuổi Lịch tiêm chủng khuyến nghị cho trẻ từ 0-6 tuổi và Lịch tiêm chủng được đề xuất cho độ tuổi từ 7 đến 18 Lịch tiêm chủng được đề xuất cho độ tuổi từ 7 đến 18 . Tiêm chủng đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, đối tượng nguy cơ phơi nhiễm cao, và những người tiếp xúc với đối tượng nguy cơ mắc bệnh cao. Những người này bao gồm các chuyên gia chăm sóc sức khỏe, giáo viên, nhân viên chăm sóc trẻ em, cư dân và nhân viên của các viện dưỡng lão hoặc các cơ sở tổ chức khác. Xét nghiệm huyết thanh học để xác định tình trạng miễn dịch trước khi tiêm chủng ở người lớn thường không bắt buộc. Hiếm khi văcxin có thể gây ra các tổn thương của bệnh thủy đậu ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, nhưng bệnh thường nhẹ < 10 gai thịt nhỏ hoặc bọng nước và ngắn gọn và gây ra một số triệu chứng toàn phòng cho các nhân viên y tế không có dấu hiệu mắc bệnh thủy đậu được khuyến cáo. Những nhân viên chăm sóc y tế dễ bị tổn thương vì đã bị phơi nhiễm với bệnh thủy đậu nên được tiêm phòng càng sớm càng tốt và nghỉ việc trong 21 ngày. Chủng ngừa được tiêm phòng trong Bệnh nhân có các tình trạng đau cấp tính cấp từ vừa đến nặng tiêm văcxin được hoãn lại cho đến khi bệnh giải quyết đượcBệnh nhân suy giảm miễn dịchPhụ nữ có thai và những người có ý định mang thai trong vòng 1 tháng sau tiêm chủng dựa trên khuyến cáo của CDC hoặc trong vòng 3 tháng sau tiêm chủng dựa trên việc ghi nhãn vắc xinBệnh nhân dùng liều cao corticosteroid có hệ thốngTrẻ em dùng salicylat Sau khi phơi nhiễm, bệnh thủy đậu có thể được ngăn ngừa hoặc làm giảm bằng cách tiêm bắp IM globulin miễn dịch VariZIG. Các ứng cử viên cho dự phòng sau phơi nhiễm bao gồm Những người bị bệnh bạch cầu, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh suy nhược nghiêm trọng khácPhụ nữ mẫn cảm mang thaiTrẻ sơ sinh mà mẹ bị bệnh thủy đậu trong vòng 5 ngày trước hoặc 2 ngày sau khi sinhTrẻ sơ sinh sinh ở < 28 tuần tuổi và tiếp xúc với nguồn không phải là mẹ dù mẹ của trẻ có bằng chứng về miễn dịch trẻ sơ sinh được sinh ra ≥ 28 tuần nên nhận globulin miễn dịch nếu mẹ của trẻ không có bằng chứng miễn dịchGlobulin miễn dịch VariZIG nên được tiêm càng sớm càng tốt và trong vòng 10 ngày kể từ khi phơi nhiễm và có thể làm thay đổi hoặc ngăn ngừa bệnh thủy chủng nên được tiêm càng sớm càng tốt cho những bệnh nhân khỏe mạnh dễ bị phơi nhiễm, đủ điều kiện tiêm chủng ví dụ 1 tuổi và không có chống chỉ định. Tiêm phòng có thể có hiệu quả trong việc phòng ngừa hoặc cải thiện bệnh trong vòng 3 ngày và có thể lên đến 5 ngày sau khi phơi ngăn ngừa lây truyền bệnh viện, CDC khuyến cáo dự phòng sau phơi nhiễm với vaccin hoặc globulin miễn dịch thủy đậu-zoster, tùy thuộc vào tình trạng miễn dịch, đối với nhân viên y tế và bệnh nhân tiếp xúc không có bằng chứng miễn dịch có tại Immunization of Health-Care Personnel. Bệnh đậu mùa gây ra mụn mủ, tổn thương vỏ bọc trên da thường bao gồm da đầu và có thể gây tổn thương loét trên màng biến chứng bao gồm nhiễm khuẩn thứ phát của tổn thương da, viêm phổi, mất điều hòa tiểu não, và, ở người lớn, viêm uống valacyclovir cho bệnh nhân thủy đậu ≥ 12 tuổi hoặc famciclovir cho bệnh nhân thủy đậu ≥ 18 tuổi và những người có rối loạn da đặc biệt là bệnh chàm hoặc bệnh phổi mãn dùng acyclovir đường tĩnh mạch cho các bệnh nhân suy giảm miễn dịch và các bệnh nhân khác có nguy cơ bị bệnh chủng cho tất cả trẻ em khỏe mạnh và người lớn mẫn cấp dự phòng sau phơi nhiễm với globulin miễn dịch thủy đậu zoster cho các bệnh nhân suy giảm miễn dịch, phụ nữ mẫn cảm mang thai và trẻ sơ sinh mà mẹ đã mắc bệnh thủy đậu trong vòng 5 ngày trước hoặc 2 ngày sau khi phòng sau phơi nhiễm bằng thuốc phòng ngừa thủy đậu cho các bệnh nhân suy giảm miễn dịch ≥ 1 tuổi đủ điều kiện tiêm chủng. HÀNH CHÁNHHọ và tên BN Hồ T. Tuổi 30 Giới tính NamNghề nghiệp Thợ hồĐịa chỉ Q. Cái Răng, ThơKhoa Nhiễm – Bệnh viện đa khoa TW Cần ThơLÝ DO NHẬP VIỆN Nổi mụn nước toàn thânBỆNH SỬBN nhập viện ngày thứ 4 của Buổi chiều, BN độ ngột cảm thấy nóng ngườikhông cặp nhiệt, mệt, không đau nhức cơ, không vã mồ hôi không uống thuốc, không ho, không sốt không buồn nôn, đại tiện, tiểu tiện chưa ghi nhận bất BN còn sốt nhẹ với tính chất tương tự. xuất hiện thêm 1 vài chấm đỏ rải rác trên ngực và bụng, không đau không ngứa, đường kính 1- 3 mmN3 – N4 Bệnh nhân hết sốt, trên nền chấm đỏ xuất hiện mụn nước trong, không đau, không ngứa, sau lan lên vai và lưng rồi lan ra toàn thân , một vài mụn nước chuyển từ trong sang đục bệnh nhân lo lắng nên đi khám tại bệnh viện đa khoa TW Cần Thơ và được cho nhập việnTình trạng lúc nhập việnBệnh tỉnh, tiếp xúc tốtNổi nhiều mụn nước trong và đục toàn thân, chưa vỡSinh hiệuMạch 80l/p Nhiệt độ 37oC Huyết áp 110/70 mmHgNhịp thở 20l/p SpO2 95%Diễn tiến bệnh phòng N5 của bệnhBệnh tỉnh, tiếp xúc tốtSốt 39oCMụn nước đục và trong rải rác toàn thânTIỀN CĂNBản thânNội khoa Chưa ghi nhận bệnh lý liên quanNgoại khoa Chưa ghi nhận bệnh lý liên quanThói quen Hút thuốc lá khôngRượu bia thỉnh thoảngDị ứng Chưa ghi nhậnGia đình Chưa ghi nhận các bệnh lý liên quanDịch tễ họcChưa chích ngừa thuỷ đậu và chưa từng bị thuỷ đậuKhu vực sống xung quanh không ai mắc triệu chứng tương tựLƯỢT QUA CÁC CƠ QUAN Khám N5 của bệnhTổng trạng Bệnh tỉnh, tiếp xúc tốtDa Sang thương mụn nước trong và đục, không đau, không ngứaTiêu hoá không đau bụngTai – Mũi – Họng Không ù tai, không chảy dịch, không nghẹt mũi, không đau họng hay khàn tiếngTim mạch không đau ngực, không đánh trống ngựcHô hấp không hoTiết niệu tiểu gắt buốt, nước tiểu vàng trongThần kinh không đau đầuCơ xương khớp không yếu liệt, đau nhức khớpKHÁM LÂM SÀNG Khám N5 của bệnhKhám toàn trạngMạch 80 l/p Huyết áp 120/70 mmHg Nhiệt độ 39 oCNhịp thở 20 l/p SpO2 96% khí phòngBMI 22 Chiều cao 1m65, Cân nặng 60kg—> Tổng trạng trung bìnhBệnh tỉnh, tiếp xúc tốtDa sang thương nhiều lứa tuổi tập trung ở mặt, ngực, bụng gồm sẩn hồng ban khoảng 2mm, mụn nước trong và đục, đa số là mụn nước đục, hình tròn, khoảng 2mm, trên viền hồng ban 3mm, chắc. Tay và chân ít sang thương hơn, chủ yếu là mụn nước trong, khoảng 2 mmTuyến giáp không toHạch ngoại vi sờ không chạmKhám tuần hoàn*Khám timLồng ngực cân đối, không sẹo mổ cũMỏm tim ở khoang liên sườn 5 đường trung đòn tráiPhản hồi gan tỉnh mạch – cổ -Không rung miu, dấu Harze -T1, T2 đều rõ, 82 l/p, không âm thổi, không T3, T4*Khám mạch máuMạch quay cánh tay đều, rõ tần số 82 lần/phútMạch mu chân T yếu, khó bắt hơn PKhám hô hấpLồng ngực di động đều theo nhịp thở, các khoảng gian sườn không giãn rộng, không co kéo cơ hô hấp phụRung thanh đều 2 bênGõ trongKhông raleKhám tiêu hoáBụng cân đối, di động đều theo nhịp thở, không tuần hoàn bang hệ, không dấu sao mạchNhu động ruột 6 l/pGõ trongBụng mềm, ấn không đauGan – lách sờ không chạmKhám thận – tiết niệu – sinh dụcẤn điểm niệu quản không đauChạm thận -Bập bềnh thận -Khám thần kinhBệnh tỉnh, trả lời chính xác bản thân, không gian, thời gianKhông mất chức năng ngôn ngữKhông có dấu thần kinh khu trúKhám dấu màng não Cổ mềm, Brudzinski -, Kernig -Khám cơ – xương – khớpTay chân 2 bên đều nhau, không phùKhông biến dạng khớpCác khớp không sưng, nóng, đỏ, đauKhám các cơ quan khác Sơ bộ chưa ghi nhận bất thườngTÓM TẮT BỆNH ÁNBN nữ, 30 tuổi, nhập viện vì nổi mụn nước toàn thân. Qua hỏi bệnh, tiền sử và khám lâm sàng ghi nhậnSốt 39oCMun nước trong và đục toàn thânTiểu gắt buốtDịch tễ Chưa chích ngừa thuỷ đậu và chưa từng bị thuỷ đậuCHẨN ĐOÁNChẩn đoán sơ bộ Thuỷ đậu N5 bội nhiễm da/ Nhiễm trùng tiểuChẩn đoán phân biệtZona do Herpes virus/ Nhiễm trùng tiểuBIỆN LUẬN CHẨN ĐOÁNBN sốt kèm xuất hiện sang thương mụn nước toàn thân nên nghĩ đến các nhóm bệnh thuỷ đậu, bệnh Zona do điểm sang thương trên BN này là rải rác khắp bụng, lưng, ngực chứ không có xu hướng mọc thành từng chùm, từng nhóm. Tiền triệu BN cũng không có cảm giác ngứa, rát ở vùng da sẽ nổi mụn nước mà BN có cảm giác ngứa sau khi các mụn nước đã hình thành. Tiền căn ở BN này chưa được ghi nhận có đợt nổi mụn nước tương tự như lần này nên không nghĩ BN đã từng bị Herpes. Đặc điểm sang thương , tiền triệu và tiền sử không hướng đến chẩn đoán nhiễm Herpes nên ta loại trừ nguyên nhân do Herpes virus bệnh nhân này ta có giai đoạn khởi đầu sốt nhẹ, mệt mỏi, ngực xuất hiên những hồng ban rải rác đường kính 2mm, sau đó xuất hiện những mụn nước từ trên nền hồng ban lan dần theo hướng li tâm lên vai, lưng và lan ra toàn thân, mụn nước chuyển từ trong sang đục sau 2 ngày đồng thời mụn nước nhiều lứa tuổi rải rác khắp cơ thể nên ta nghĩ nhiều nhiều tới thủy đậu, tuy bệnh nhân chưa ghi nhận tiếp xúc với người bệnh thủy đậu trong thời gian gần đây nhưng không thể loại trừ vì lâm sàng phù hợp và tiền căn chưa chích ngừa thủy bệnh nhân không đau không ngứa ở vị trí các nốt đâu nhưng ta vẫn nghĩ nhiều đến thủy đậu bội nhiễm da vì nốt đậu đa số chứa dịch đục, mọc trên viền hồng ban 3mm đồng thời khi thăm khám thấy bệnh nhân có sốt cao mặc dù sang thương da đã xuất hiện được 4 ngày. Không nghĩ tới tình trạng sốt cao sau khi nhập viện là do nhiễm trùng bệnh viện vì bệnh nhân chỉ mới nhập viên được 24h. Ngoài ra, bệnh nhân than tiểu đau sau khi nhập viện, tuy thăm khám chưa phát hiện bất thường nhưng chưa thể loại trừ biến chứng hoặc một bệnh lí khác kèm theo, nên đề nghị tptnt để đánh giá lâm sàng không thấy các triệu chứng khác ở tim không âm thổi bất thường, không đau ngực không khó thở, phổi không ho, không khó thở, không rale , thần kinh bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, không thất điều, không co giật nên ít nghĩ còn bệnh nhân có biến chứng bệnh nhân này sang thương mọc rải rác khắp ngực, lưng, mặt, phân bố đều không có xư hướng mọc thành nhóm thành chùm, tiền căn chưa có những lần nổi mụn nước tương tự trước đây ngoài ra trên bề mặt da không có những vết loét trợt kèm xuất huyết nên ta ít nghĩa tới nguyên nhân do có sang thương đa dạng, tuy nhiên xu hướng là li tâm chứ không phải hướng tâm đồng thơi các bóng nước chắc, không cảm giác đau đồng thời trong khoảng thời gian gần đây bệnh nhân không sử dụng thuốc nên ta có thể loại trừ nguyên nhân do di ứng nhân có triêu chứng tiểu đau tuy nhiên nước tiểu vàng trong đồng thời thăm khám không thấy hội chứng kích thích bàng quang nên nghĩ nhiều nhiễm trùng tiểu gây hẹp niệu đạo, xuất hiện sau khi nhập viện nên nghĩ đến đây là biến chứng của thủy đậu, tuy nhiên chưa loại trừ đây là 1 bệnh lí kèm LÂM SÀNGCận lâm sàng đề nghịTổng phân tích tế bào máuTổng phân tích nước tiểuBUN, CreatinineCận lâm sàng hiện cóCông thức máuRBC 1012/LWBC 109/LHGB g/dLNEU %Hct %MCV fLBASO %MCH fLMONO %MCHC g/LLympho %PLT 147 109/L Tổng phân tích nước tiểupH 5Eryth 50Leu 25Cặn lắng Hồng cầu 2+Bạch cầu 1+BIỆN LUẬN CẬN LÂM SÀNGTổng phân tích nước tiểu thấy hồng cầu Nhiễm trùng tiểu nghĩ nhiều do nốt đậu mọc ở đường tiết niệu gây ra tình trạng tiểu máu vi thể, tuy nhiên để loại trừ 1 số bệnh lí khác à đề nghị làm thêm siêu ĐOÁN HIỆN TẠI Thuỷ đậu N5 bội nhiễm da/ Nhiễm trùng tiểuHƯỚNG ĐIỀU TRỊKháng sinh điều trị bội nhiễm, nhiễm trùng tiểuThuốc diệt virus AcyclovirBôi ngoài da chống nhiễm trùng Blue methylenĐiều trị triêu chứng kháng Histamin, hạ sốtTIÊN LƯỢNG – DỰ PHÒNGTiên lượng tốtBN sinh hiệu ổn nhưng cần tránh gãi các mụn nước gây nhiễm trùng, khả năng hồi phục tốtDự phòng Giáo dục tuyên truyền ý thức về bệnh thủy đậuCách ly bệnh nhân cho đến khi nốt đậu đóng màyTuân thủ điều trị, giữ vệ sinh da để phòng ngừa biến chứng khác

cách làm bệnh án thủy đậu