Gốm Bát Tràng là tên gọi chung của các loại đồ gốm Việt Nam được sản xuất tại làng Bát Tràng, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Theo nghĩa Hán Việt, chữ Bát (鉢) là bát ăn của nhà sư ( tiếng Phạn là Patra ), chữ Tràng (場, còn đọc là Trường) nghĩa là "cái
Làng bát quái vào dễ, ra khó ở Trung Quốc. Bát Quái Gia Cát được xây dựng theo Bát trận đồ của Khổng Minh, với các ngõ ngách đan xen tạo thành một mê cung khiến người lạ vào đây luôn bị mất phương hướng. Nằm phía tây thành phố Lan Khê, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc
Bát Trận Đồ – Tập 10 | Phim Bộ Cổ Trang Trung Quốc Hay Nhất | Thuyết Minh Bát Trận Đồ Full Bộ: #battrando #phimbotrungquoc #phimbo Phim Bộ Trung Quốc 2022 – Thuyết Minh : Thủy Nguyệt Đồng Thiên Full Bộ : Truyền Kỳ Bao Tam Cô Full : Ngạo Tửu Giang Hồ Full Bộ : Cuộc Chiến Tam Gia Full
On 12/19/2017 TRUNG QUOC TRAN filed a Family - Marriage Dissolution/Divorce lawsuit against MYLY THI DANG. This case was filed in Florida Pinellas Court System, Clearwater Branch Office - Circuit located in Pinellas, Florida. The Judge overseeing this case is LABRUZZO, CHRISTOPHER M. The case status is Not Classified By Court.
Trung tá Won Seong-hoon thuộc Lữ đoàn Công binh số 7 của Hàn Quốc nhấn mạnh: “Rèn luyện năng lực vượt sông là yếu tố then chốt trong khi triển khai hoạt động tác chiến do tính chất địa lý của Bán đảo Triều Tiên là có nhiều sông”. Hình ảnh trong cuộc tập trận.
cash. Bát trân vốn là một khái niệm, tên gọi xuất hiện từ thời nhà Chu 1121 – 221 trước Công nguyên thuộc Trung Quốc ngày nay để chỉ tám món trân quý, tám báu vật ẩm thực. Theo thời gian, văn hóa, qua các triều đại, bát trân có sự thay đổi, tuy nhiên vẫn là những món ăn được xếp vào loại quý hiếm, đắt đỏ mà thường chỉ dành cho Vua chúa hoặc tầng lớp thượng lưu. I. Bát trân triều đại Nhà Chu Nước sốt thịt và mỡ phủ trên cơm Lợn sữa hầm, chiên lửa nhỏ Thịt cừu hầm tẩm bột chiên giòn Thịt bò, cừu và thăn hươu nướng Thịt bò sống và thịt cừu nấu với rượu và đường, Thịt bò khô tẩm gia vị Gan cừu Gan chó có thể là sói. Cũng trong thời Nhà Chu, Bát trân cũng còn đề cập đến tám loại gia súc và thịt động vật như Cừu, nai sừng tấm, hươu, nai rừng, ngựa, lợn, chó và chó sói. Bát trân thời Nhà Chu là các loại thực phẩm cùng cách nấu nướng khá đơn giản khá gần gũi cuộc sống hoặc không phải là loại quá quí hiếm như về sau. Có lẽ trước Công nguyên, cuộc sống cũng đơn giản và khó khăn nên các loại thực phẩm trên cũng đã là quý mà dân thường ít được thưởng thức. Tài liệu về bát trân thời kỳ này cũng không cụ thể và chi tiết. II. Các triều đại Tống – Nguyên – Minh Bát trân thời nhà Tống Gan rồng có thể là gan của cá hoặc tê tê, hoặc gan của rắn, một số ý kiến nghiên cứu cho rằng đó là gan của một con ngựa bạch Tủy phượng hoàng có thể là tủy hoặc não của chim trĩ đực vàng, Bào thai báo, Đuôi cá chép Theo phân tích thì không phải đuôi cá chép, vì đuôi cá chép không có gì đặc biệt, không quý hiếm, có thể là đuôi của tê tê, vì con tê tê đã được gọi là ” cá chép”thời cổ đại, Cú nướng, Môi đười ươi hoặc thịt khô trên mặt nai sừng tấm, Tay gấu, Ve sầu chiên giòn ? Bát trân thời nhà Nguyên Có tám báu vật của Phương Bắc hoặc tám báu vật của Mông Cổ Pho mát tinh luyện Rượu sữa ngựa Móng lạc đà rừng Môi hươu Cháo sữa lạc đà Thiên nga nướng Sữa của cừu tía Sữa ngựa Bát trân thời nhà Minh giống thời nhà Tống Gan rồng có thể là gan của cá hoặc tê tê, hoặc gan của rắn, một số ý kiến nghiên cứu cho rằng đó là gan của một con ngựa bạch Tủy phượng hoàng có thể là tủy hoặc não của chim trĩ đực vàng, Bào thai báo, Đuôi cá chép Theo phân tích thì không phải đuôi cá chép, vì đuôi cá chép không có gì đặc biệt, không quý hiếm, có thể là đuôi của tê tê, vì con tê tê đã được gọi là ” cá chép”thời cổ đại, Cú nướng, Môi đười ươi thịt khô trên mặt nai sừng tấm, Tay gấu, Ve sầu có lẽ là pho mát giòn cao cấp hình giống ve sầu III. Bát trân thời nhà Thanh Bát trân của triều đại Nhà Thanh có nhiều khái niệm Bát trân khái niệm chung Hải sâm Vi cá mập, Xương loại xương cá giòn sụn Bụng cá hoặc bóng cá, Tổ Yến Tay gấu Gân hươu Sâu chưa rõ ? Bát trân của đặc sản núi rừng và sông biển Núi rừng Tay gấu, nhung hươu, mũi tê giác hoặc chân voi, bướu, cầy mèo, bào thai báo, vú sư tử. Sông biển Vi cá mập, bào ngư, môi cá, hải sâm, baba, sò điệp, cá chiên giòn, ếch. Bát trân của bốn loại thực phẩm Rừng Tay gấu, bướu, nấm, môi đười ươi, vòi voi, bào thai báo, đuôi tê giác, gân hươu Biển Yến sào, vi cá mập, hắc sâm lớn, cá chạch, xương cá, bào ngư, hải cẩu, cá con chưa rõ Chim Nhạn đỏ, chim cút, gà gô, chim sẻ sặc sỡ có thể là chim công, chim bồ câu rùa, đại bàng đầu đỏ, phi long một loại chim gọi là gà gô hạt phỉ trong các khu rừng Đông Bắc Trung Quốc, Rau nấm Nấm hầu thủ, nấm trắng, nấm tre, nấm tổ lừa, nấm bụng dê, nấm hoa, nấm đông cô, hoa loa kèn. IV. Thời Trung Hoa Dân Quốc Thời ttieeps theo sau nhà Thanh, Bát trân trong ẩm thực mỗi vùng một khác và có nhiều loại hơn, nhưng tựu trung theo ẩm thực Bắc Kinh là tám loại sau Môi đười ươi, Tổ yến, bướu, tay gấu, nấm lớn, bào thai báo, gân nai, ếch Các vùng khác như Yên Đài, Sơn Đông thì thêm/ thay các loại Bào ngư, hải sâm, sò điệp, baba, cầy hương mèo, vịt trời, măng tứ xuyên, V. Thời xưa ở Việt nam Các triều đại Vua chúa Bát trân bao gồm Nem công, chả phượng, da tê giác, bàn tay gấu, gân nai, môi đười ươi, thịt chân voi và yến sào. Nhiều trong số Bát trân trước đây giờ là động vật được bảo vệ và nghiêm cấm săn bắn giết hại trên phạm vi Quốc tế, chẳng hạn như gấu, voi, đười ươi, báo, tê giác, tê tê, cú, hải cẩu, cá con, trên. Ngày nay những con vật tự nhiên này không thể được đưa vào Bát trân. Do vậy, trong thời hiện đại, khi chưa có những quy định chặt chẽ về bảo tồn động vật quý hiếm, bát trân là Tay gấu, tê tê, gân nai, tổ yến, bào ngư, vi cá, hải sâm, sâm cầm Hiện nay, sau khi có quy định về bảo tồn động vật quý hiếm, ở Việt nam ngày nay có thể đưa ra tám món bát trân như sau Gân nai, tổ yến, bào ngư, vi cá, hải sâm, ba ba, sâm cầm, nấm quý Các loại thực phẩm trên thường được chế biến cùng các loại thảo dược, gia vị quý hiếm như nhân sâm, đông trùng hạ thảo, nấm, sá sùng … Nguồn bài viết “Bát Trân“ Dược Thiện
Bát trân ngọc thực – Ẩm thực cung đình Huế xưa và nay. Bát trân là tên chỉ 8 loại bát đĩa cực kỳ quý hiếm ngày xưa, chủ yếu xuất hiện trong cung đình. Bát báu rất hiếm vì hầu hết chúng là phần tinh túy nhất của thế giới muôn loài. Nhưng những món ăn này có thực sự bổ dưỡng hay không thì mãi sau này khoa học mới chứng minh được. Tuy nhiên, từ xa xưa, các bậc vua chúa đã coi bát ngọc là loại thuốc bổ mang lại sức khỏe và trường thọ. Ngày nay, trong số 8 loại thực phẩm quý, chỉ có tổ yến là vẫn dễ kiếm và được phép sử dụng. 7 thứ còn lại, một số loài đã tuyệt chủng hoặc nếu còn tồn tại đều thuộc danh mục động vật quý hiếm cần được bảo vệ, bảo tồn. Bằng những nguyên liệu cao cấp mà nguồn tài nguyên phong phú của Việt Nam có thể cung cấp, để chúng ta vẫn có thể tái hiện bữa tiệc cung đình xưa như yến sào, vây cá, chả cá, hải sâm, cua gạch, tôm hùm, sò huyết, bào ngư… cùng chúng tôi tìm hiểu tiếp nhé! Bát trânNguồn gốc từ bát trân Trung Hoa…Ẩm thực cung đình Việt Nam xưaCòn 2 trong 8 món này còn được giữ lạiBát trân có bổ dưỡng?Kết luận Bát trân chính là tên gọi chung của tám món ăn quý hiếm chỉ dành cho giới quý tộc cung đình cũng như các bậc vua chúa. Xưa kia, ẩm thực cung đình khác biệt hoàn toàn so với chốn bình dân bởi hai yếu tố là quý hiếm và cầu kỳ. Và bát trân là ví dụ vô cùng điển hình cho điều này. Nhờ sự quý hiếm kết hợp với các nguyên liệu đi kèm bát trân không chỉ đặc biệt mà còn rất bổ, mang đến sự trường thọ cho vua chúa. Trên thực tế thì bát trên không hề ổn định và có sự thay đổi theo thời gian. Tùy thuộc vào thời đại và quốc gia mà những món ăn trong bát trên lại có sự chuyển biến. Bởi vậy về cơ bản thì bát trân không hề thống nhất. Nguồn gốc từ bát trân Trung Hoa… Ở Trung Quốc, thời nhà Đường 618-907 đã xuất hiện bát trân. Đến đời nhà Tống 950-1275, nhà Minh 1368-1628. Thì các món ăn trong bát trân lại của sự thay đổi. Tùy nơi tùy thời, mỗi món ăn trong bát trân mỗi khác. Nguồn gốc từ bát trân Trung Hoa Nhưng nhìn chung lại, 8 món cao lương mỹ vị thường được nhắc đến trong danh sách này, Đó là long can gan rồng, phượng tủy tủy phượng, báo thai bào thai báo, lý vĩ đuôi cá chép, hào chích chả chim cú, tinh thần môi đười ươi, hùng chưởng bàn chân gấu, tô lạc thiền ve nấu sữa béo. Bát trân hội tụ những món ăn hiếm có khó tìm. Ngay cả một số vua chúa cũng chưa có cơ hội nếm thử. Ẩm thực cung đình Việt Nam xưa Hơn một nghìn năm bị thống trị dưới ách đô hộ của các triều đại Trung Quốc, Việt Nam chịu không ít ảnh hưởng từ quốc gia hùng mạnh này, đặc biệt là về ẩm thực. Bát trân cũng vậy. Danh sách bát trân ở nước ta thời xưa là những món mà chỉ vua chúa mới có cơ hội dùng đến, bao gồm nem công, chả phượng, da tê ngưu, bàn tay gấu, gân nai, môi đười ươi, chân voi, yến sào. Tuy nhiên, việc thống nhất các món ăn trong danh sách này gặp nhiều khó khăn vì hầu hết các tư liệu đã bị thất truyền, nên cũng không thể tránh khỏi mỗi nơi mỗi vùng sẽ có một bát trân khác nhau. Còn 2 trong 8 món này còn được giữ lại Ngày nay, nhiều món ăn trong bát trân ngọc thực đã được thay thế bằng những thực phẩm khác dễ tìm hơn. Một phần vì chúng bị thất truyền theo thời gian, phần vì Luật pháp Việt Nam bắt đầu cấm săn bắn động vật hoang dã quý hiếm từ năm 1999. Chính vì vậy mà chỉ có 2 trong 8 món quyền quý này còn được giữ lại là yến sào và gân nai, 6 món còn lại đã được thay thế bởi bào ngư, vi cá, hải sâm, bong bóng cá tươi, sò điệp, gan ngỗng. Bát trân có bổ dưỡng? Huyền thoại về Bát trân ngọc thực Với sự can thiệp của khoa học, thành thần dinh dưỡng trong bát trân ngày nay. Không còn là suy đoán của nhiều người nữa. Cụ thể, yến sào chứa khoảng 55% protein không béo. Và 18 loại axit amin cực kỳ quan trọng đối với sức khỏe cơ thể. Trong đó có thể kể đến một số axit amin có hàm lượng rất cao. Như aspartic acid 4,69%, proline 5,27% và một số axit amin không thể thay thế như cystein, phenylalamine 4,50%. Hàm lượng canxi trong tổ yến vào khoảng 503,6 – 2071,3 mg/g và hàm lượng natri khoảng 39,8 – 509,6 mg/g. Ngoài ra, yến sào còn chứa hơn 31 vi chất khác nhau cần thiết cho cơ thể. Với thành phần dinh dưỡng cao ngất ngưởng như trên. Yến sào xứng đáng là món ăn tồn tại lâu đời nhất trong danh sách bát trân xưa và nay. Ăn yến sào đều đặn giúp giảm căng thẳng mệt mỏi, chống lão hóa. Cải thiện hệ hô hấp, giảm huyết áp. Cải thiện chức năng tim, điều hòa lưu thông máu trong cơ thể. Và làm tăng tuổi thọ con người. Kết luận Việt Nam là một đất nước có nguồn tài nguyên dồi dào. Chính vì vậy mà nền ẩm thực thiên nhiên của chúng ta cũng hết sức đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, không nên khai thác tài nguyên quá mức để phục vụ cho nhu cầu ăn uống. Dẫn đến mất cân bằng sinh thái và ảnh hưởng sự phát triển kinh tế nước nhà.
Chắc hẳn rất nhiều người trong số chúng ta đã từng nghe đến “bát trân” - những món ăn quý giá trong cung đình mà chỉ có các bậc vua chúa, quan lại ngày xưa mới được sử dụng. Và nhiều người vẫn thường thắc mắc không biết bát trân là gì? Việt Nam có bát trân hay không và nếu có thì gồm những món nào?Bát trân 8 món trân quý là tên gọi của 8 món ăn cực kỳ quý hiếm và cầu kỳ mà chỉ có vua chúa, quý tộc cung đình thời xưa mới được hưởng dụng. Thậm chí bởi sự quý hiếm đó mà có nhiều vị vua chúa còn chưa được thưởng thức hết cả 8 món ăn đang xem Bát trân là gìBát trân có thể coi là những món ăn thuộc hàng “tuyệt phẩm” bởi sự kết hợp giữa những loại nguyên liệu cực kỳ quý hiếm được xem như tinh túy của muôn loài cộng với các gia vị đi kèm. Tất cả được chế biến để tuân theo một cách hoàn hảo học thuyết âm dương, ngũ hành, dược lý, y lý - những tư tưởng đã thấm nhuần trong văn hóa phương Đông - nhằm tạo ra những liều thuốc đại bổ, đem lại sức khỏe và sự trường thọ cho các bậc vua chất, công dụng tuyệt vời của bát trân đến sau này mới được các nhà khoa học chứng minh hết. Còn trước đó, các món ăn này nổi tiếng chủ yếu chỉ vì mức độ hiếm có, và theo quan niệm của người xưa đã hiếm thì sẽ quý, ngon miệng và bổ quan niệm 8 món bát trân gồm những món nào thì tùy vào thời gian, địa điểm, văn hóa, môi trường mà có quan niệm khác nhau. Trong đó nổi tiếng và được nhiều người biết đến nhất là “bát trân Trung Hoa” hay bát trân Trung Quốc gồm các món long can gan rồng, phượng tủy tủy phượng, báo thai bào thai báo, lý vĩ đuôi cá chép, hào chích chả chim cú, tinh thần môi đười ươi, hùng chưởng tay gấu và tô lạc thiền ve nấu sữa. Ở các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng có bát trân nhưng ít được biết đến thực cung đình nước ta cũng có bát trân. Tuy nhiên việc xác định rõ ràng danh sách bát trân Việt Nam là rất khó khăn bởi các tài liệu đã bị thất lạc nhiều. Bên cạnh đó mỗi thời đại lại có những món bát trân khác nhau, thậm chí một số món còn khá lạ lẫm, khó xác định. Tuy nhiên có thể tạm liệt kê ra danh sách 8 món ăn nhiều lần được xếp vào nhóm bát trân món bát trân của Việt NamBát trân của Việt Nam xưa bao gồm nem công, chả phượng, hùng chưởng, tinh thần, gân nai, da tê ngưu, thịt chân voi và yến Nem công Công còn gọi là khổng tước, nộc dung, cuông là loài chim thuộc họ trĩ thường sống trên các đồi, gò cao hay trong bụi tre, trúc rậm rạp. Nem công được chế biến khá cầu kỳ bằng cách cho lên men vi sinh chứ không qua công đoạn nấu nướng. Thịt công có khả năng giải một số loại độc nên được xem là “bùa hộ mệnh” của vua chúa khi Chả phượng Loài chim phượng sống ở các vùng núi cao rất khó tìm thấy, chim đực gọi là phượng còn chim cái gọi là hoàng. Khi bắt được một đôi chim này, người ta tiến hành làm thịt sống, chỉ lấy thịt nạc chế thành chả viên. Thịt chim phượng rất giàu dinh dưỡng và cũng được xem là vị thuốc bảo vệ sức Hùng chưởng Hùng chưởng hay còn gọi là tay gấu. Tay gấu là nơi tập trung chất dinh dưỡng để gấu sống qua mùa đông do đó rất bổ và thơm ngon. Khi chế biến, người xưa phải nhúng tay gấu vào dầu sôi đủ một trăm lần để làm lông, sau đó lấy gân tay ngâm vào nhựa đu đủ 1 ngày 1 đêm rồi lại ngâm tiếp vào nước tro 1 ngày. Lúc này mới sử dụng để nấu chung với các loại dược liệu, thuốc bổ Tinh thần Tinh thần là tên gọi của món môi đười ươi. Loài đười ươi rất khó bắt, nhưng lại thích bắt chước và thích uống thứ cay như rượu. Do đó người săn đười ươi thường đặt dép da, guốc gỗ và vài hũ rượu mạnh trước cửa hang của chúng. Đười ươi lúc này sẽ uống rượu và đi dép như loài người. Đến khi chúng say thì người thợ săn sẽ xông ra trói lại một cách dễ dàng. Môi đười ươi thường được phơi khô rồi chế biến thành các món ăn khác Da tê ngưu Tê ngưu là tên gọi khác của loài tê giác. Thịt của loài này dày, dai, dùng dao đâm cũng không thủng do đó ăn không được. Chỉ có phần nách ở hai chân trước là mềm, có thể đâm qua để giết và ăn được. Khi chế biến, người đầu bếp phải cạo hết lông, lọc hết mỡ, ngày phơi nắng, tối sấy lửa đủ 100 ngày. Sau đó tẩm rượu khoảng một tháng rồi cất vào hộp bằng bạc hay vàng. Trước khi ăn phải ngâm vào nước tro thảo mộc 7 ngày, 7 đêm rồi rửa sạch, hấp cách thủy cho chín sau đó thái mỏng để Thịt chân voi Loài voi cũng có da rất giày, khó đâm thủng. Tuy nhiên ở phần gan bàn chân của chúng lại có một đoạn thịt tập trung rất nhiều dây thần kinh. Khi chế biến, người ta lấy phần thịt này ninh một ngày một đêm, nấu với các vị thuốc khác và ăn cùng thạch rau câu. Phần thịt này ngon, giòn và được cho là có thể chữa khỏi các bệnh về gân Yến sào Yến sào là tổ của loài chim yến, được làm từ nước bọt của chúng và do đó có thể ăn được. Yến thường làm tổ ở trên những vách đá hay trần hang động cao, cheo leo do đó rất khó thu hoạch. Trong tổ yến sào có chứa rất nhiều chất dinh dưỡng và được vua chúa thời xưa sử dụng để tẩm bổ cơ thể, đặc biệt là trong việc nâng cao khả năng sinh trân Việt Nam thời nayNgày nay trừ yến sào và gân nai, những món còn lại trong bát trân đã rất khó có thể tìm được do sự tuyệt chủng hay khan hiếm của các loài động vật. Do đó, nhiều người đã đưa ra danh sách bát trân thời nay gồm những món ăn cũng rất thơm ngon, bổ dưỡng và có thể tìm được. Cụ thể- Yến sào- Gân nai- Vi cá Vây cá mập cung cấp rất nhiều chất đạm, calo cùng một ít chất khoáng và được xem là thần dược giúp trẻ hóa, nuôi dưỡng máu, bồi bổ các bộ phận trong cơ Bào ngư Còn được gọi là ốc cửu khổng. Bào ngư thường được sử dụng trong các món ăn thơm ngon, bổ dưỡng như bồ câu hầm bào ngư, cháo bào ngư,….- Hải sâm Còn được gọi là đỉa biển, hải sâm rất được xem trọng ở nhiều quốc gia châu Á do tin tưởng vào khả năng chữa bệnh của nó. Món ăn này cũng thường được chế biến tương tự như bào Bóng cá Bóng cá hay bong bóng cá còn được gọi là phiêu giao, hoa giao, lấy từ ruột cá rồi phơi khô. Món ăn này có công hiệu bổ âm, dưỡng huyết, kiện thận, ích Sò điệp Sò điệp còn gọi là điệp quạt, sò quạt, là giống sò lớn thường được chế biến thành các món như sò điệp rang muối ớt, sò điệp nướng mỡ hành,…. Sò điệp có vị ngọt, tính mát, không độc, có công dụng thông khí, mát gan, giải nhiệt, giải rượu và giải độc đây là một số thông tin mà chúng tôi muốn chia sẻ để giải đáp câu hỏi bát trân là gì, bát trân Việt Nam bao gồm những món gì mà nhiều người thường đặt ra. Nếu có hứng thú, bạn cũng có thể tìm mua một trong số những món bát trân Việt Nam hiện nay để thử chế biến thành những món ăn độc đáo, thơm ngon và cực kỳ bổ dưỡng cho bản thân cũng như cả gia đình.
Bát trân là tên gọi chung của tám món ăn quý hiếm và cầu kỳ chỉ dành cho giới quý tộc cung đình, chủ yếu là các bậc vua chúa. Xưa kia, sự khác biệt của ẩm thực nơi hoàng triều với chốn bình dân thể hiện qua hai yếu tố quý hiếm và cầu kỳ. Bát trân là ví dụ điển hình cho điều này. Đây là tám món ăn thuộc hàng tuyệt phẩm mà chỉ riêng vua chúa mới có cơ hội "chạm đũa" đến. Nhờ vào bàn tay của các ngự trù, bát trân thành mỹ vị. Nhờ vào sự quý hiếm được coi là tinh túy của thế giới muôn loài cùng sự kết hợp y lý của các nguyên liệu đi kèm, bát trân còn là những liều thuốc bổ, mang đến sức khỏe và sự trường thọ cho các bậc vua chúa. Thật ra, tính chất bổ dưỡng của bát trân thời gian sau này mới được chứng minh. Thời xa xưa, bát trân nổi tiếng vì đều là các loại thực phẩm cực kỳ hiếm. Mà đã hiếm thì ắt là quý, rồi quý nên tất phải ngon miệng và bổ dưỡng. Quan niệm thế nào là quý hiếm và cầu kỳ trong ẩm thực cung đình, theo thời gian, đã có nhiều thay đổi [1]. Bởi vậy thế nào được gọi là "bát trân" về cơ bản là không thống nhất. Ở Trung Quốc, đời nhà Đường 618-907 có Bát trân, nhưng đến đời nhà Tống 950-1275, nhà Minh 1368-1628 thì các món ăn trong bát trân lại của sự thay đổi. Contents 1 Bát trân Trung Hoa thời Tống, Minh 2 Bát trân Việt Nam xưa 3 Bát trân hiện nay 4 Chú thích 5 Tham khảo Bát trân Trung Hoa thời Tống, Minh Bát trân 八珍 Long can 龍肝, gan rồng, Phượng tủy 鳳髓, tủy phượng, Báo thai 豹胎, bào thai báo, Lý vĩ 鯉尾, đuôi cá chép, Hào chích 鴞炙, chả chim cú, Tinh thần 猩脣, môi đười ươi, Hùng chưởng 熊掌, bàn chân gấu, Tô lạc thiền 酥酪蟬, ve nấu sữa béo. Ngoài các món kể trên còn nhiều thuyết khác, tùy nơi tùy thời. Bát trân Việt Nam xưa Việc thống nhất các món ăn được liệt vào danh sách bát trân trong ẩm thực cung đình nước ta vẫn chưa có hồi kết, bởi hầu hết các tư liệu về ẩm thực cung đình xưa đã thất truyền khá nhiều, mặt khác thỉnh thoảng lại có thêm những nghiên cứu làm nảy sinh vài món lạ. Tuy nhiên, có thể tạm liệt kê tám món trân quý thời xưa, bao gồm nem công, chả phượng, da tê ngưu, bàn tay gấu, gân nai, môi đười ươi, thịt chân voi và yến sào. Danh sách bát trân này rất gần với "Trung Quốc thập trân" của người Hoa, được lưu truyền từ đời Tần, Hán. Nem công Công còn gọi là khổng tước thường sống trên đồi, gò cao hoặc trong những rừng tre trúc rậm rạp. Bởi vậy, việc săn bắt chim công khi xưa không phải dễ dàng. Nem công của người Việt được chế biến không qua nấu nướng, mà bằng cách cho thịt đùi công đã được giã mịn lên men vi sinh do tác động của các gia vị có tính nóng riềng, tỏi, tiêu.... Thịt công là "thuốc giải" nhiều độc tố trong thiên nhiên mà con người lỡ ăn phải, nên được xem như "thần hộ mệnh" của các bậc đế vương thời trước. Chả phượng Loài chim phượng chỉ sống ở vùng núi cao, ít người trông thấy, nói gì đến bắt được chúng. Người xưa còn cho rằng chim phượng xuất hiện khi có thánh nhân ra đời. Chả phượng là món ăn cực hiếm, cách chế biến lại rất cầu kỳ. Chim phượng bắt được thì cắt tiết, nhổ lông sống chứ không dùng nước sôi như các loại gia cầm khác. Thịt phượng được giã mịn, nêm gia vị, gói lá chuối thật kín rồi hấp chín rồi lấy chân gà róc da ống chân, xiên vào viên chả. Móng chân gà làm chỗ cầm để ăn chả. Lại lấy mỡ gà trống thiến đun chảy ra, rồi mỡ đương sôi thì cho chả vào. Rán vàng xong, đoạn vớt để nguội và ráo mỡ. Khi ăn, nhúng chả vào mỡ sôi để dùng cho nóng. Muốn ăn chả cho giòn thì lấy da phượng nhúng vào nước gà sôi, lấy kéo cắt thành sợi nhỏ mà cột viên chả vào đầu xương ống chân gà. Chấm chả phượng với xì dầu hay chanh muối tiêu. Thịt chim phượng giàu dinh dưỡng, cũng là "vị thuốc" bảo vệ sức khỏe tối đa. Da tê ngưu Lấy phần da gần nách tê giác, đem ngày phơi nắng, tối sấy lửa suốt 100 ngày, rồi tẩm rượu một tháng, phơi khô, cất vào hộp bằng bạc hay vàng. Khi muốn chế biến da tê ngưu, người ta phải ngâm nó vào nước tro thảo mộc bảy ngày đêm, rồi rửa sạch, đem hấp cách thủy cho chín. Sau đem thái mỏng để ăn như nem, giòn và thơm. Bàn tay gấu Nhúng tay gấu vào mỡ đun sôi đủ một trăm lần để làm lông, sau đó nấu cùng nhiều vị thuốc bổ khác trong thời gian dài. Gân nai Khi làm thịt, dùng lửa thui đùi nai, cạo sạch lông. Sau đó luộc cho mềm rồi xẻ lấy sợi gân, tách ra khỏi bắp thịt. Ngâm gân nai vào nước có pha ít muối và dấm cho trắng và mềm. Khi đã mềm thì cho hầm chung với những nguyên phụ liệu khác như tôm khô, củ đậu, măng tươi, chả lụa... trong nước gà hầm đã lọc lấy nước trong rồi nêm gia vị. Môi đười ươi Bắt đười ươi rất khó, môi đười ươi là món ăn chỉ dành cho vua chúa. Thịt chân voi[2] có thuyết nói là "vòi voi"[1] Thịt gân ở chân voi săn chắc, giòn, chế biến món ăn vừa ngon vừa bổ dưỡng. Yến sào Con chim yến làm tổ bằng nước bọt vào vách đá/gỗ tạo nên cái tổ có hình dạng một nửa chén trà. Tổ yến mới làm xong gọi là tổ yến thô. Qua quá trình vệ sinh, tinh chế tổ yến, ta có yến sạch để làm nguyên vật liệu chế biến thành các món ăn. Tổ yến có công dụng bồi bổ thần kinh, gân cốt đến chống suy nhược và kéo dài tuổi thọ. Bát trân hiện nay Yến sào yến oa, tổ yến. Gân nai lộc cân. Vi cá mập ngư xí Dùng vây cá mập. Nấu, đánh sạch thịt trên vây sau đó đem ninh với rượu và gừng trước khi chế biến với nước dùng ngọt. Bào ngư ốc cửu không Được hầm trong nước dùng tổng hợp gồm thịt gà, nạc heo, thịt xông khói kim hoa, gia vị suốt cả nửa ngày mới đạt đủ độ mềm, trước khi chế biến thành những món ngon như bồ câu hầm bào ngư, cháo bào ngư, bào ngư hầm nấm đông cô. Hải sâm Chế biến gần tương tự món bào ngư. Bong bóng cá Thường dùng bong bóng cá mú, cá đường. Thường tiềm gà với gia vị để lấy nước dùng, sau đó cho bong bóng cá vào. Sò điệp Là giống sò lớn, ngon và hiếm. Thường được xào hoặc lăn bột chiên. Gan ngỗng Có thể nấu cháo, làm pate, hoặc ướp gia vị và nấu trên lửa thật nhỏ. Chú thích ↑ 1,0 1,1 Bát trân xưa và nay ↑ Bát trân trong ẩm thực cung đình xưa Tham khảo Bát trân xưa và nay Thể loạiẨm thực châu Á Thể loạiẨm thực hoàng gia zh八珍
Tám món ăn hay mười món ăn quý nhất Trung Hoa. Nước Trung Hoa xưa, kể cả ngày nay nữa, có rất nhiều món ăn ngon, lạ, bổ. Những vua chúa cũng như những anh hùng hảo hán trải qua bao thời đại, đã lựa chọn trong các thức ăn ấy để lấy mấy thứ mà người ta cho là lạ nhứt, cầu kỳ nhứt, vì hiếm có. Những món ăn hiếm ấy thường là tám thứ, gọi là Bát trân. Dưới đời Tần Thủy Hoàng 221-209 trước không phải là tám, món mà vua này thường dùng mười món nên gọi là Thập trân. Tính chất bổ dưỡng của Bát hay Thập trân không biết có thực không, nhưng nhứt định các thức ấy đều thuộc về loại thực phẩm cực kỳ hiếm có. Và, vì hiếm nên người ta cho là quý, rồi cho là lạ và ắt phải ngon, phải bổ. Đời nhà Đường 618-907 thì có Bát trân, nhưng đến đời nhà Tống 950-1275, nhà Minh 1368-1628 thì lại có Bát trân khác. Bát trân của đời Đường là Gan rồng. Chả phụng. Báo, bao tử cọp. Đuôi cá gáy. Chả thịt cú. Môi đười ươi. Bàn tay gấu. Vành mí mắt heo con. Bát trân của đời nhà Tống và nhà Minh là Gan rồng. Chả phụng. Thịt chim Dủ Di lộn. Đuôi cá lý ngư cá chép. Môi đười ươi. Thỏ hàng nàm Vành mí mắt heo con. Bàn tay gấu. Thập trân đời Tần và Hán Nem công Tứ Xuyên. Chả phượng Tây Khương. Da Tây ngu tê giác Tây Tạng. Tay gấu Mông Cổ. Gân hươu Liêu Ninh. Mí mắt đười ươi Hiệp Tây. Chân voi Thanh Hải. Yến sào Tây Sa. Trùng thảo Quảng Tây. Trúc sáng Vân Nam. Đây là "Mười món ăn quý của Trung Hoa" Trung Quốc thập trân. Nem công Tứ Xuyên là nem làm bằng da và thịt con công đánh bẫy ở rừng trúc tỉnh Tứ Xuyên, thuộc phía tây nam Trung Hoa. Công tên chữ là Khổng Tước ửa ở nơi gò, đồi cao để bay dễ dàng; và ở gần rừng tre, trúc và cây cao rậm rạp, những nơi thường có những thú dữ như cọp, beo. Săn bắt nó rất khó. Công trống Tứ Xuyên sinh ra được 36 tháng thì đuôi dài trên hai thước. Khi nó múa, lôn xòe tròn như cái lọng hay cái bánh xe, có đủ màu sắc của cầu vòng. Mật công rất độc, ăn phải sẽ chết. Nhưng thịt và da công thì có thể giải được hết thảy các thứ độc do thời khí gây nên. Chả phượng Tây Khương là đem một con trống và một con mái, lựa giống vàng hay trắng, đuôi dài, đánh bẫy ở Tây Khương, đem cắt tiết rồi nhổ lông sống. Chớ không nhúng nước sôi như làm lông gà. Vì nếu nhúng như vậy thì chả sẽ vữa, nát và mất giòn. Bỏ hết ruột, gan, mề, mật, phổi. Lấy dao sắc lột bỏ da, chỉ lấy thịt nạc. Xương, đầu, cánh, chân đều bỏ cả. Thịt nạc cắt thành miếng nhỏ, cho vào cối đá mà quết. Lấy nước mắm, tiêu, xì dầu, một chút hàn the tán nhỏ, một chút mật ong hay đường trắng, và cứ năm phần thịt phượng thì cho vào một phần mỡ gà trống thiến béo, rồi tiếp tục quết đến bao giờ thành chả nhuyễn mới thôi. Bấy giờ nặn chả ấy thành viên bằng ngón tay cái, để vào nồi hấp cách thủy cho thịt vừa chín tới; đoạn lấy chân gà róc da ống chân, xiên vào viên chả. Móng chân gà làm chỗ cầm để ăn chả. Lại lấy mỡ gà trống thiến đun chảy ra, rồi mỡ đương sôi thì cho chả vào. Rán vàng xong, đoạn vớt để nguội và ráo mỡ. Khi ăn, nhúng chả vào mỡ sôi để dùng cho nóng. Muốn ăn chả cho giòn thì lấy da phượng nhúng vào nước gà sôi, lấy kéo cắt thành sợi nhỏ mà cột viên chả vào đầu xương ống chân gà. Chấm chả phượng với xì dầu hay chanh muối tiêu. Da tây ngu Tây Tạng là da nách con tây ngu. Tại miền rừng núi ở về phía tây Trung Hoa như chân dãy núi xứ Tây Tạng, khí hậu ẩm thấp, trong những rừng cây thưa thớt có một loài heo rừng đặc biệt gọi là con tây ngu, tê ngu, tây ngưu hay tê giác. Đây là một giống thú rất hung dữ, vì nó có một sức mạnh phi thường. Da tây ngu dầy đến một tấc và gấp lại thành miếng như áo giáp. Các khí giới thường khó đâm thủng được. Tuy nhiên chỉ có da ở nách hai chân trước và háng hai chân sau là mềm. Người đi săn phải nhắm trúng chỗ ấy mà đâm mới hạ nổi nó. Nhưn làm gì đến gần được. Muốn săn nó chỉ có lối đánh bẫy mà thôi. Người ta đốt rừng dồn nó đến chỗ đầm lầy, rồi nhử nó tới ăn các cây gai loài này chuyên ăn cây có gai. Khi tới ăn bị sa lầy xuống bùn sình, lúc bấy giờ dùng giáo mác mà đâm vào nách, vào háng nó. Thịt tê ngưu dai, ăn không ngon. Chỉ có da nách của nó là ăn được. Đem da tươi cạo hết lông, lọc hết mỡ; rồi ban ngày đem phơi nắng, tối lại sấy lửa đến 100 ngày. Đoạn tẩm rượu Mai quế lộ một tháng rồi đem phơi khô, cất vào hộp bằng bạc hay vàng. Vì người ta tin rằng nếu để ngoài trời, da sẽ bay đi mất. Khi muốn ăn da ấy, người ta phải ngâm nó vào nước tro thảo mộc bảy ngày đêm, rồi rửa sạch, đem hấp cách thủy cho chín. Sau đem thái mỏng để ăn như nem, giòn và thơm. Người ta nghiệm rằng đã ăn được da tây ngu thì sau sẽ hết bịnh hôi nách và không bao giờ bị phong sương mang bịnh. Tay gấu Mông Cổ là bàn tay của con gấu ở xứ Mông Cổ. Tại miền bắc Trung Hoa, nhứt là ở rừng xứ Mông Cổ có loại gấu nâu và gấu trắng rất to lớn. Cứ đến mùa đông, gấu này vào hang hay khe đá, bụi cây mà ngủ trong 3 đến 6 tháng, không ăn uống gì cả. Nó nằm thu mình lại, thò hai tay ra ngoài như để phơi nắng. Thế rồi khi đông tàn, tuyết tan, xuân đến, gấu thức dậy. Việc đầu tiên của nó là liếm hai bàn tay. Liếm cả ngày, cả đêm, không đi kiếm mồi mà cũng no! Người ta cho rằng hai bàn tay của nó đã thu được âm dương của trời đất khi nó ngủ, nên lúc thức dậy nó liếm tay thay vì ăn thức ăn. Chính vì thế mà người ta chuộng bàn tay gấu mà gọi là "hùng chưởng". Ăn tay gấu sẽ được khỏe mạnh, sống lâu. Người ta lại cho rằng khi bắt được gấu thì các chất tinh khiết của mạch nó đều chạy lên cả hai bàn tay. Đây cũng là thêm một lý do để làm cho món tay gấu thành ra quý, bổ. Muốn tay gấu trở thành thức ăn, người ta phải nhúng bàn tay gấu vào mỡ gấu đun sôi đủ một trăm lần để làm lông. Đoạn lấy gân trong bàn tay ngâm vào nước nhựa trái đu đủ trong một ngày một đêm, rồi lại ngâm vào nước tro một ngày. Bấy giờ mới đem rửa gân và da gang bàn tay bằng rượu, rồi nấu các vị thuốc bổ, trong đó có huỳnh kỳ, khởi tử, hoài sơn, Gân hươu Liêu Ninh là gân con hươu ở Liêu Ninh làm món ăn. Hươi ở miền núi Liêu Ninh có tiếng là quý. Vì hươu ở đây được ăn ngon một giống nhân sâm mọc trong rừng. Gân hươu có thể làm ra nhiều món ăn. Gân hươu khô đem ngâm với nước tro bếp một đêm. Hôm sau cho vào nồi nước, đun sôi trong hai giờ. Khi nào gân mềm sẽ đem ra, rửa sạch rồi cắt thành từng khúc nhỏ, lại chẻ hai đầu ra làm bốn năm miếng. Lấy thịt gà nạc, thịt bắp đùi heo, hành, nấm hương, của mã thày, đậu xanh, mướp hương, sáng sấu chanh hay muốn tiêu, mì chính, muối rang và bốn vị thuốc bắc là khởi tử, hoài sơn, đại táo, hùng kỳ, cho gân hươu vào nấu chín mềm là thành món ăn ngon và bổ. Mí mắt đười ươi Hiệp Tây là lấy mí mắt con đười ươi ở Hiệp Tây. Tại rừng rậm tỉnh Hiệp Tây có một loài đười ươi lớn, tay dài, mặt trắng, lông nâu và có đôi mắt và đôi môi rất to. Đây là một giống khỉ lớn, đi bằng hai chân rất mau và có một sức khỏe kinh khủng. Săn được nó là một điều rất khó khăn. Vì nếu vô phúc bị nó bắt được thì nó sẽ nắm lấy đầu mà bóp bẹp như bóp một hột vịt. Đặc tính của nó hay cười, thích uống thứ gì cay như rượu. Người săn bắt đười ươi dùng mấy chụp dép da hay guốc gỗ và mấy hũ rượu mạnh đặt ở trước cửa hang của chúng. Đười ươi biết ngay người ta muốn bắt chúng, nên kéo nhau bỏ hang đi hết. Nhưng một lúc sau tiếc của, chúng kêu nhau trở lại lấy rượu uống, lấy dép guốc đi rồi cười giỡn cả khu rừng lại múa may, nhảy nhót. Một lúc say mềm thì ngã lăn ra đất mà ngủ, mồm há ra mà cười với trời. Bấy giờ, người ta xông ra trói, bắt dễ như trở bàn tay. Mí mắt, môi đười ươi phơi khô để làm vị ăn. Lông thì làm bút lông thật tốt. Chân voi Thanh Hải là chân của con voi ở Thanh Hải. Voi ăn cây cỏ, hoa quả. Thường, voi được 25 đe6 n 30 năm mới đẻ con. Ở trên rừng voi sống lâu tới 100 năm. Có con sống trên 200 năm. Chân voi tuy lớn, cục mịch thế mà rất tài tình. Khi dẵm lên đâu thì nó biết ngay chỗ nào mềm, chỗ nào cứng nên ít khi bị sa hố. Vì trong gang bàn chân của nó có một lớp thịt rất mềm; sau lớp thịt ấy có nhiều dây thần kinh thật tinh vi. Chính lớp thịt ấy, người ta lấy để làm món ăn, vì nó ngon giòn, nuốt qua cổ họng đã thấy trong người khoan khoái, và chữa khỏi bịnh gân cốt. Người ta lấy thịt trong bàn chân voi rồi ninh một ngày một đêm, đoạn nấu với các vị thuốc và đem ăn cùng với thạch rau câu vì hai thứ giòn, mềm như nhau. Thạch sẽ dẫn chất bổ của thịt chân voi đi khắp cơ thể ta một cách nhanh chóng. Yến sào Tây Sa là món yến tìm thấy trên hòn đảo Tây Sa. Yến biển thuộc về loài chim sẻ. Trên thế giới có chừng 10 giống. Chúng ở rải rác trên các hải đảo chạy dài từ đảo Vinh Sơn thuộc tỉnh Quảng Bình, qua cù lao Chàm ngang Đà Nẵng, vách đá bờ biển phía đông mũi đất Phương Mai, tới 7 đảo ngoài khơi Nha Trang, từ ngang đèo Cả tới vịnh Cam Ranh. Hải yến được nổi tiếng trên thế giới chẳng phải vì giọng hót hay, bộ mã đẹp hay vì thịt ngon mà chỉ vì cái ổ của chim yến sào. Ổ yến làm bằng một thứ rong biển đặc biệt được biến chế bởi nước miếng của chim yến. Người Á Đông đã công nhận là món ăn thật bổ, ngon; và cũng vì các tính chất quý ấy m` ổ yến được liệt vào một món ăn đắt nhất, có thể nó rằng ổ yến đắt như vàng. Ổ yến làm ở những chỗ cheo leo trên vách đá. Nó có nhiều màu tùy theo sự thay đổi của vách đá. Ở trên cao, ổ màu trắng, ở phía dưới ẩm thấp hơn thì ổ màu xám hay màu xanh lợt, màu da cam hoặc đỏ như máu. Ổ yến đỏ gọi là huyết yến là loại ổ quý nhất, vì người ta cho rằng ổ sở dĩ đỏ là vì làm bằng nước dãi và máu của chim yến mẹ đã hy sinh làm ổ bằng máu của nó. Ổ yến đỏ rất hiếm. Thật ra ổ yến đỏ này không phải là do huyết mẹ mà có lẽ vì chim đã làm ổ này bằng một thứ rong biển đặc biệt lấy ở ngoài khơi, loại rong biển này màu đỏ. Cũng như những ổ khác màu trắng hay màu xanh lợt do chim đã làm bằng một thứ rong biển trắng như thạch, tìm ở ngoài biển rồi lấy nước dãi biến chế thành những sợi tơ trong. Đoạn chúng đem gắn chặt sợi nọ vào sợi kia thành một cái ổ xinh đẹp, rất nhẹ và bền. Các nhà bác học phân chất trong ổ yến có nước vị toan của miệng và dạ dày chim là chất làm cho thức ăn dễ tiêu, lại có thêm chất đường, chất nhựa tròng trắng trứng gà là cu-bi-lêđo và sinh chất cùng hóa chất của muốn biển của loài hải rong là loại có nhiều i-ốt và lân tinh. Muốn ăn yến, người ta ngâm yến vào nước nóng, nào là cho dầu phộng vào nước để lọc hết lông và chất dơ, nào là nhặt hết lông yến bằng tăm, nào là chế nước dùng bằng thịt gà, thịt chim hay đường phèn... Có biết làm thì món yến sào quý giá kia mới trở nên ngon và bổ, xứng đáng là một món ăn đắt tiền nhứt mà xưa nay vua chúa cũng như những người mắc phải bịnh nặng hay những người muốn tẩm bổ cho thân thể khỏe mạnh và cường tráng... hay hơn nữa để đông con. Cũng như Tần Thủy Hoàng có trên 3000 cung nữ, và đã lấy món yến thay cơm hàng ngày; hay như vua Minh Mạng nước Việt Nam cũng lấy món yến làm món ăn thường nhựt, nên đã có tới 75 hoàng tử và 83 công chúa. Trùng thảo Quảng Tây là gì? Theo người dân vùng núi tỉnh Vân Nam thì đó là một thứ rễ cây tự nhiên biến đổi thành con sâu và sâu ấy có chất bổ đặc biệt. Ăn nó sẽ trừ được bá bịnh, nhứt là về lao lực. Nhưng có người lại cho rằng đó là hình con sâu sống ở trên loại cây bổ như cây nhân sâm trên rừng hay cây tam thất. Vì ăn nhiều chất bổ của hai loại thảo mộc ấy nên tự nhiên biến thể vào thành ra rễ cây giống như rễ cây sâm hay rễ cây tam thất. Nhưng lại có thuyết cho rằng trùng thảo là một con tằm dại sống trên một vài cây thuộc loại nhân sâm, nhứt là cây đinh lăng rừng. Khi thời tiết đổi thay bất thường, có nhiều con sâu bị một thứ nấm tống cú xuất hiện, mọc trên đầu, trên cổ, dưới phía đuôi. Trước còn nhỏ, ngắn; sau dần mọc dài ra, con tằm dại ấy bị cây hút hết thịt rồi ít lâu chết lăn xuống đất. Trong giới lương y, người ta vào rừng nhặt các sâu ấy đem về sao tẩm thành một môn thuốc bổ và chữa những chứng nan y có công hiệu. Món ăn trùng thảo khó tìm được, vì họa có năm tằm dại bị nấm ăn mới có, nên rất đắt tiền. Già trẻ trai gái đều ăn món trùng thảo được. Người ta thường bắt sâu tươi về phơi khô để dành hoặc làm món ăn. Họ nấu với vi yến hoặc đem chiên giòn với mỡ gà trống thiến. Còn món trúc sáng Vân Nam thì làm bằng màng mỏng ở trong giống cây trúc rừng. Người ta cho rằng những khóm trúc nào đã mọc được 100 năm bên bờ suối thì mới có trúc sáng. Nhưng theo những nhà bác học thì trúc sáng không phải là màng mỏng ruột cây trúc mà là một thứ nấm mọc ở gốc cây tre, cây trúc. Nấm này hình dài, mỏng như lụa, có trổ nhiều lỗ như màng nhện. Nếu ta thả vào chậu nước nóng ma xem thì thấy rõ hình cây nấm. Chân nấm dày, mình mỏng, lỗ hoa to lớn, đầu như chụp nón mỏng. Theo sách Đông y, người Trung Hoa biết lấy nấm trúc sáng để làm thuốc giải độc, lọc máu và nhuận trường từ thời xa xưa. Cũng như các vị thuốc quý, ngày nay trúc sáng đã thành món ăn ngon và bổ. Tục truyền rằng ngày xưa, hoàng hậu và cung phi cưng của Tần Thủy Hoàng hàng ngày ăn canh trúc sáng để cho da mặt được tươi đẹp.
bát trân trung quốc